Hình thành động cơ học tập cho học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự theo 4 trụ cột của UNESCO

Học viên Học viện Kỹ thuật quân sự là những người đang theo học ở bậc đại học trong các học viện và các trường quân đội, sau khi tốt nghiệp họ trở thành sĩ quan chỉ huy trong Quân đội từ cấp trung đội đến đại đội hoặc tương đương[1].

Việc xác định động cơ học tập cho học viên rõ ràng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hứng thú học tập của học viên. Vấn đề động cơ học tập của học viên, động cơ học tập đó đã và đang phát huy tác dụng như thế nào đến hoạt động học tập của học viên là một điều rất đáng được quan tâm nghiên cứu.

  1. Những vấn đề chung về động cơ

1.1.  Khái niệm hoạt động học

Theo quan điểm của Tâm lý học hoạt động, hoạt động có quan hệ, tác động qua lại giữa con người và thế giới. Trong đó, con người làm biến đổi thế giới, tạo ra sản phẩm có chứa đựng tâm lý – ý thức – tính cách của mình. Đồng thời thế giới tác động trở lại làm cho con người có nhận thức mới, năng lực mới. Hay nói khác đi hoạt động là quá trình xác lập, vận hành các mối quan hệ nhất định của con người với thế giới xung quanh và với chính bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
Như vậy con người có rất nhiều hoạt động trong cuộc sống như: hoạt động lao động, hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, hoạt động nghiên cứu khoa học, lao động hướng nghiệp…Ở mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có một hoạt động chủ đạo chi phối các hoạt động khác. Ở lứa tuổi đầu tuổi thanh niên thì “Hoạt động học tập, sáng tạo là hoạt động cơ bản và quan trọng của thanh niên sinh viên[2]. Đối với học viên đào tào sĩ quan ngoài hoạt động học tập, sáng tạo ra thì hoạt động chính trị- xã hội phục vụ quân đội lâu dài, phục vụ đất nước là mục tiêu quan trọng để thúc đẩy động cơ của học viên.

Hoạt động học: Là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những giá trị, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định.

Để hình thành hoạt động học cần:

+ Hình thành động cơ học tập

+ Hình thành mục đích học tập

+ Hình thành các hành động học tập

1.2. Khái niệm động cơ học tập:

Nghiên cứu động cơ hoạt động của con người đã được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học và có nhiều thuyết khác nhau đưa ra quan điểm và khái niệm về động cơ.

Theo thuyết phân tâm học: Động cơ là động lực thúc đẩy hoạt động của con người là vô thức. nguồn gốc vô thức là những bản năng nguyên thuỷ mang tính sinh vật và nhấn mạnh vai trò của các xung năng tính dục.

Theo thuyết hành vi: với mô hình “kính thích (S)- phản ứng (R)”, coi kích thích là nguồn gốc tạo ra phản ứng hay gọi là động cơ.

Theo J. Piaget: Động cơ là tất cả các yếu tố thúc đẩy cá thể hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu và định hướng cho hoạt động đó.

– Theo thuyết tâm lý hoạt động: Động cơ là những đối tượng nào được phản ánh vào óc ta mà có tác dụng thúc đẩy hoạt động, xác định phương hướng hoạt động để thoả mãn nhu cầu nhất định thì được gọi là động cơ hoạt động.

Đứng trên lập trường của các nhà Tâm lý học Mác xít chúng tôi theo hướng của tâm lý hoạt động, việc đi tìm động cơ sẽ liên quan đến nhu cầu, hứng thú, …Vì vậy cần tìm hiểu thêm các khái niệm như:

+ Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần phải thoả mãn trong những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.

+ Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa đem lại cho cá nhân sự hấp dẫn về mặt tình cảm.
Vậy thì khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện động cơ học tập. Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo … mà giáo dục đem lại.

Nhiều nhà tâm lý học đều khẳng định: hoạt động học tập của người học được thúc đẩy bởi nhiều động cơ.Các động cơ này tạo thành cấu trúc xác định có thứ bậc của các kích thích, trong đó có một số động cơ là chủ đạo, cơ bản, một số động cơ khác là phụ, là thứ yếu.

Hoạt động học tập của học viên Học viện KTQS hướng vào việc lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để có thể thể đạt được những mục tiêu đào tạo đã đề ra của quân đội của nhà trường.

Theo đó, có thể hiểu động cơ học tập của học viên Học viện Kỹ thuật quân sự chính là những yếu tố tâm lý tạo nên sức mạnh thúc đẩy hoạt động học tập của họ, nhằm chiếm lĩnh những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.

Động cơ học tập của học viên là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có khả năng thoả mãn nhu cầu của người học, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó.

  1. Hình thành động cơ học tập cho học viên Học viện KTQS.

2.1. Sự hình thành động cơ học tập:

Động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được hình thành dần dần trong quá trình học tập của học viên dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, cán bộ quản lý, nhà trường. Nhu cầu giải quyết được mâu thuẫn “giữa một bên là “phải hiểu biết” và bên kia là “chưa hiểu biết” (hoặc hiểu biết chưa đủ, chưa đúng)” là nguyên nhân chính yếu để hình thành động cơ học tập ở học viên.
Ngoài ra, động cơ nói chung và động cơ học tập nói riêng thường liên hệ mật thiết tới hứng thú của mỗi người. Nhờ có hứng thú mà động cơ ngày càng mạnh mẽ. Vì thế vai trò của hứng thú trong học tập là rất lớn. Trong học tập chẳng những cần có động cơ đúng đắn mà còn phải có hứng thú bền vững thì học viên mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả nhất.

Như đã phân tích ở trên, động cơ học được chia thành hai loại là động cơ bên ngoài (động cơ nghề nghiệp và động cơ phục vụ quân đội lâu dài) và động cơ bên trong (động cơ hoàn thiện tri thức, hình thành kỹ năng của người sĩ quan chỉ huy). Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức thường không chứa đựng xung đột bên trong. Có thể có những khó khăn trong quá trình học hỏi đòi hỏi phải có nỗ lực ý chí để khắc phục, nhưng là khắc phục các trở ngại bên ngoài chứ không hướng vào đấu tranh với chính bản thân. Do đó, chủ thể của hoạt động học không có những căng thẳng tâm lý. Hơn nữa, động lực nội tâm còn chứng tỏ được khả năng “tự quyết định”, làm phát sinh tinh thần độc lập, tự giải quyết các trở ngại, đem lại cho người học nhiều sáng kiến. Nên hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này được cho là tối ưu trong lĩnh vực sư phạm. Còn Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở mức độ nào đó mang tính cưỡng bức, có những lực chống đối nhau (như kết quả học tập không đáp ứng mong muốn của bản thân). Vì thế nó gắn liền với sự căng thẳng tâm lý, không đóng góp nhiều cho óc sáng tạo và khả năng giải quyết các trở ngại. Hơn nữa nó đòi hỏi phải đấu tranh với chính bản thân nên học viên dễ vi phạm quy định, kỉ luật của quân đội lơ là việc học…

Tuy nhiên, xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó (tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ quan hệ xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoàn thiện tri thức, trở thành một bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn cảnh cụ thể, điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia chiếm vị trí quan trọng hơn, nổi lên và chiếm ưu thế trong thứ bậc động cơ.
Vậy dựa trên nền tảng đó, ta có thể đưa ra một số phương cách cụ thể để hình thành động cơ học tập cho học viên Học viện KTQS.

2.2. Xác định học tập là mục tiêu tự thân theo 4 trụ cột của Unesco

Các giáo viên, trước khi dạy tri thức, rèn luyện kỹ năng, phải dạy cho người học biết rằng: Học tập là mục tiêu tự. Chỉ khi nào học viên tự xác định được và/hay nhà trường giúp học viên xác định được những mục tiêu học tập đúng đắn cho chính họ làm động cơ tự thân thì họ mới tích cực nổ lực học tập. Vậy thì mục tiêu học tập mà chúng ta cần hướng cho học viên là gì để thu hút được họ nhiệt tình, trách nhiệm trong học tập? Theo UNESCO (1996) các mục tiêu trụ cột của việc học trong thời đại ngày nay là “học để biết, học để làm, học để chung sống với nhau và học để tồn tại”. Có sự liên quan gì giữa những mục tiêu học tập này với sự nhiệt tình học tập của người học?

Học để biết (learning to know)

Học trước tiên để hiểu biết (learn to know) và là mục tiêu truyền thống của việc học. Khi người học khao khát muốn biết thì sẽ say sưa học tập để tìm kiếm kiến thức. Chính vì thế mà các nền giáo dục tiên tiến như giáo dục Mỹ đang dày công giúp cho học sinh, sinh viên có “khuynh hướng muốn biết”. Giáo dục Thái Lan đặt cũng ra mục tiêu “giúp cho học sinh khao khát tìm kiếm tri thức mới, khám phá bản thân và cuộc sống”. Tuy nhiên, kiến thức nhân loại, dù trong một lĩnh vực chuyên môn hẹp, không ngừng được cập nhật và trong xã hội đầy biến động làm sao một con người có thể hiểu biết hết tất cả những gì xung quanh và sử dụng lượng kiến thức học được ở trường đại học trong một số năm để tác động vào thực tiễn? Cách duy nhất là học để không ngừng cập nhật kiến thức trong suốt cuộc đời (life-long learning) (Trần Lê Hữu Nghĩa, 2008). Do vậy, cái biết quan trọng nhất của người học là để biết cách học (knowing how to learn), đặc biệt là cách tự học. Nói cách khác, dạy học không chỉ lấy việc thuyết giảng nhằm trang bị kiến thức cho học viên làm nhiệm vụ cơ bản mà phải tạo cơ hội cho người học chủ động tích cực trong việc tìm kiếm kiến thức theo những cách thức nhất định (phương pháp học) và vận dụng những kiến thức đã học được để tiếp tục học. Rõ ràng sinh viên làm các bài tập toán với mục đích cụ thể là tìm ra đáp số cho bài toán, nhưng có lẽ không ai nhớ được và cũng không cần nhớ để làm gì những đáp số đó. Mục tiêu của việc làm bài tập đó là để biết được cách giải toán, để hiểu và vận dụng những nguyên lý toán học cho việc tiếp tục học được các môn học sau. Học để biết quan trọng nữa là biết sử dụng các phương tiện để giúp học tập có hiệu quả cao. Trong số các phương tiện cần học nhất trong thời đại toàn cầu hoá và bùng nổ thông tin hiện này thì phải là ngoại ngữ (mà quang trọng nhất là tiếng Anh) và tin học. Khi học viên chủ động sử dụng được ngoại ngữ và tin học thì chắc chắn họ say mê học tập hơn vì họ tiếp cận được thông tin không hạn chế của nhân loại một cách có hiệu quả hơn.

* Học để làm (learning to do)

Khi người học xác định được việc học là để trang bị cho mình năng lực làm việc với một nghề nghiệp đã được định hướng (theo chương trình đào tạo) thì người học sẽ học nhằm có được những kiến thứckỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Khi xác định được mục tiêu này thì người học sẽ say sưa học tập, học không vì mục đích đối phó thi cử hay bằng cấp mà học vì mục đích làm việc trong cả cuộc đời. Về khía cạch này thì học đại học cũng giống như học lái xe, mục đích của việc học lái xe không phải là để lấy bằng lái (mặc dù đó là yêu cầu bắt buộc phải có) mà cơ bản là để sau này biết lái xe mà không nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy, khi học lái xe không ai lại không tích cực học cả vì người học đều nhận thức rõ đó là học cho chính mình và học để làm (lái xe) thực sự. Tuy nhiên, học ở đại học còn phải nhằm mục tiêu xa hơn nữa là học để biết sáng tạo (learning to be creative). Học tập đối với học viên đôi khi chỉ vì sự thúc ép của đơn vị, nhà trường hoặc chỉ đơn thuần là để lấy tấm bằng vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm mà thiếu hẳn sự say mê vươn tới đỉnh cao tri thức và sáng tạo và vì thế mà thiếu đi sự đam mê. Khi có mục tiêu vươn tới đỉnh cao tri thức và sáng tạo thì học viên mới say mê trong học tập. Chính vì thế giáo dục Nhật Bản đặt ra mục tiêu “Đào tạo một lớp người mới đầy năng lực sáng tạo có khả năng khám phá và thích ứng nhanh chóng với xã hội thông tin”. Một khi người học không khát khao sáng tạo thì sẽ không tự giác, nỗ lực và say sưa trong học tập. Một học viên ngành Vũ khí chẳng hạn chắc chắn sẽ say mê học tập nếu có khát khao và tin rằng rằng sau này mình sẽ tạo ra được những vũ khí công nghệ cao phục vụ cho huấn luyện và chiến đấu trong mọi điều kiện.

Học để chung sống (learning to live together)

Thế giới ngày càng xích lại gần nhau, mỗi quân nhân là một mắt xích trong xã hội và phụ thuộc lẫn nhau cho nên bản thân mỗi quân nhân không chỉ học cho riêng mình mà còn học cho cả tập thể quân nhân, học lẫn nhau, để hợp tác với nhau và để chung sống với nhau. Khía niệm học để chung sống nhấn mạnh vào việc phát triển sự hiểu biết, quan tâm và tôn trọng đồng chí đồng đội, tôn trọng người khác, kể cả niềm tin, giá trị và văn hoá riêng của họ. Điều này được coi là sẽ tạo cơ sở cho việc tránh được xung đột, giải quyết mọi vấn đề không bằng bạo lực và chung sống hoà bình, cùng tiến bộ với nhau. Hơn thế nữa, điều này cũng có nghĩa là thừa nhận sự khác biệt của nhau và sự đa dạng như là cơ hội, là nguồn lực có giá trị để khai thác vì mục tiêu chung, chứ không phải là mối đe doạ. Chính vì vậy nhiều nước đang tìm những cách khác nhau nhằm khuyến khích việc học để chung sống. Khi học viên quân đội xác định được mục tiêu này thì ngoài việc học để lấy kiến thức và kỹ năng để làm việc phục vụ Quân đội thì họ sẽ thấy cần phải và hứng thú học với nhau, học cách học cùng nhau để phát triển khả năng chung sống và làm việc cùng nhau sau này. Đó là một động cơ để học viên nhiệt tình học tập, trách nhiệm trng việc học.

Học để tồn tại (learning to be)

Xã hội luôn luôn biến đổi, kiến thức nhân loại luôn luôn bùng nổ, trong xã hội hiện đại ai muốn tự khảng định mình, muốn tồn tại được bình đẳng với mọi người thì không thể không học tập. Học tập không ngừng trong suốt cuộc đời là con đường mà mỗi người phải xây cho mình tồn tại được trong xã hội học tập ngày nay mà đất nước nào cũng đang xây dựng. Đây cũng chính là điều mà mỗi học viên phải ý thức được để lấy việc học làm động cơ tự thân cho chính mình, từ đó mới say mê học, học cho chính sự tồn tại của bản thân mình. Sự phát triển của vũ khí trang bị nhanh chóng, nếu học viên không tự học, tự nâng cao và mở rộng kiến thức của bản thân thì khó đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Quân đội, của đất nước.

Kết luận

Việc hình thành động cơ tích cực học tập cho học viên Học viện KTQS là hết sức quan trọng và cần thiết, học viên phải tự ý thức được cho bản thân mình là phải biết cách biến trí thức của nhân loại thành kiến thức của riêng mình. Ngược lại, việc xây dựng động cơ cần hướng vào phát triển chính bản thân người học sao cho họ thấy hứng thú học tập. Đồng thời, quá trình đào tạo tại Học viện KTQS phải giúp học viên biết rèn luyện việc tự học và duy trì việc học suốt đời, chứ không chỉ dừng lại sau khi tốt nghiệp kỹ sư quân sự hoặc chỉ học khi buộc phải học.

Đại úy, ThS Nguyễn Anh Tuấn

Khoa Công tác đảng, công tác chính trị

Học viện Kỹ thuật Quân sự

(Bài đã được công bố trong Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Động cơ học tập của người học và trách nhiệm của người dạy – Thực trạng và giải pháp”,  tổ chức tại Bà Rịa-Vũng Tàu ngày 17-18/7/2015, NXB Đại học quốc gia Hà Nội ấn hành, Hà Nội 2015, tr.360-366).

Tài liệu tham khảo

 

  1. Trương Khánh Hà. Tâm lý học phát triển. NXB, ĐHQG Hà Nội. 2014
  2. Lê Văn Hồng (chủ biên). Tâm lí học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. NXB. ĐH Quốc gia.
  3. Ts. Trần Thị Hương (chủ biên). Giáo trình Giáo dục học đại cương. NXB. ĐH Sư phạm Tp. HCM.
  4. Nguyễn Thị Bích Hạnh – Trần Thị Hương. Lý luận dạy học. Khoa tâm lý giáo dục ĐH Sư phạm Tp. HCM.
  5. Đoàn Huy Oánh. Tâm lý học sư phạm. NXB. ĐH Quốc gia Tp. HCM.
  6. Phạm Minh Hạc. Tuyển tập tâm lý học.
  7. Phan Trọng Ngọ. Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB. ĐH Sư phạm.
  8. Đặng Thành Hưng. Dạy học hiện đại. NXB. ĐH Quốc gia Hà Nội.
  9. Trần Đình Thắng (chủ biên). Giáo dục học quân sự,. NXB. QĐND. 2003

 

[1] Nguyễn Anh Tuấn, Luận văn Thạc sĩ “Giáo dục kỹ năng sống cho học viên hệ đào tạo sĩ quan tại Học viện Kỹ thuật Quân sự”, tr20

[2] Trương Khánh Hà, Tâm lý học phát triển, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2014, tr 226

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *